Thời Thơ Ấu (1901-1918)

Pier Giorgio Frassati sinh ngày 6 tháng 4 năm 1901 tại Turin, Ý. Ông là con trai của Alfredo Frassati, người sáng lập và giám đốc tờ nhật báo "La Stampa", và Adelaide Ametis, một người phụ nữ có tính cách mạnh mẽ và khí chất nghệ thuật. Ông có một em gái, Luciana, kém một tuổi, là người chơi cùng và bạn học không thể tách rời.

Gia đình Frassati thuộc tầng lớp trung lưu, có tư tưởng tự do, với một người cha bất khả tri và một người mẹ là tín đồ về mặt hình thức. Từ mẹ, Pier Giorgio nhận được những nền tảng căn bản của đức tin, điều mà sau này trưởng thành trong ông một cách bất ngờ và trở thành nền tảng của cuộc sống.

Ông theo học trường công lập "Massimo d'Azeglio" và sau đó khi trượt môn tiếng Latinh, chuyển sang "Istituto Sociale"(Học viện xã hội) của Dòng Tên. Tại đây, ông bắt đầu rước lễ mỗi ngày, điều mà ông sẽ làm trong suốt phần đời còn lại của mình, và tham gia Hội Thánh Vincent de Paul.

Thời Thanh Niên (1918-1925)

Năm 1918, Pier Giorgio đăng ký vào Đại học Bách khoa Turin: ông muốn trở thành một kỹ sư khai thác mỏ "để có thể phục vụ Chúa Kitô nhiều hơn nữa khi ở giữa người thợ mỏ". Ông tham gia hội đoàn "Cesare Balbo" của FUCI (Hội Công giáo Sinh viên), nơi đã trở thành một môi trường đặc biệt của sự đào tạo tinh thần Kito giáo và tình bạn.

Ông đeo huy hiệu của Giới trẻ Công giáo trên ve áo của mình, và khắc ghi phương châm :"Cầu nguyện, Hành động, Hy sinh". Năm 1920, cha ông được bổ nhiệm làm đại sứ tại Đức. Tại Berlin, Pier Giorgio đã đến thăm các khu dân cư nghèo nhất và tiếp xúc với các sinh viên và công nhân Công giáo trẻ người Đức.

Vào tháng 9 năm 1921 tại Roma, trong một cuộc biểu tình lớn của Thanh niên Công giáo, ông đã bảo vệ lá cờ hội đoàn (FUCI- Hội Công giáo sinh viên) của mình khỏi sự tấn công của các vệ binh hoàng gia và bị bắt.

Đời Sống Tâm Linh

Đức tin sâu sắc của Pier Giorgio được nuôi dưỡng bởi Thánh Thể hằng ngày, kinh nguyện và việc xưng tội thường xuyên. Ông yêu mến Lời Chúa: vào thời đó, nó được dành cho những người có đời sống thánh hiến, nhưng ông mua các bản văn để có thể tự mình đọc chúng.

Các tác phẩm của Thánh Catherine thành Siena và những bài phát biểu nảy lửa của Savonarola đã đưa ông gia nhập Dòng Ba Đa Minh vào năm 1922 với tên gọi "tu huynh Girolamo". Ông là thành viên của nhiều hội đoàn Công giáo, trong đó ông đã từ bỏ nhiều mối quan tâm của đời sống Ki-tô hữu của mình.

Hoàn toàn tin tưởng vào những lời của Chúa Giêsu, ông thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong người lân cận của mình, ông coi mình "nghèo khó như tất cả những người nghèo": ông quảng đại với những lời nói và cử chỉ bác ái huynh đệ.

Hoạt Động Xã Hội

Pier Giorgio tham gia vào công việc tông đồ xã hội, có mặt ngay cả trong các nhà máy. Tin vào sự cần thiết phải cải cách xã hội, vào năm 1920, ông gia nhập Đảng Nhân dân Ý mà ông coi là một phương tiện để xây dựng một xã hội công bằng hơn.

Kể từ trước khi Mussolini lên nắm quyền, ông đã công khai chống lại chủ nghĩa phát xít. Ông vô cùng thất vọng về sự gia nhập của một bộ phận Đảng Nhân dân vào chính phủ phát xít, và ông có những lời lẽ rất gay gắt chỉ trích việc này.

Là con trai của giám đốc nhật báo "La Stampa", ông làm tuyên truyền viên cho các tờ báo Công giáo. Khả năng quan tâm liên lỉ không bao giờ hết đến nhu cầu của người khác, đặc biệt là người nghèo và bệnh tật, những người mà ông dành thời gian, năng lượng và cả cuộc sống của mình.

Sở Thích và Tính Cách

Pier Giorgio đam mê núi và thể thao, là thành viên của CAI (Câu lạc bộ Alpin Ý) và Giovane Montagna. Ông thường tổ chức các chuyến đi với bạn bè ( nhóm "Shady Guys") biến việc này trở thành dịp để làm việc tông đồ.

Ông đi xem kịch, opera, thăm bảo tàng, yêu hội họa và âm nhạc, thuộc lòng nhiều đoạn trong tác phẩm của Dante. Ông là một người vui vẻ, hài hước và được bạn bè yêu mến, kết hợp hài hoà đời sống tâm linh sâu sắc với niềm vui sống.

Cái Chết và Di Sản

Hai tháng trước khi tốt nghiệp, tuổi trẻ sung sức của ông đã bị cắt đứt bởi bệnh bại liệt thể tối cấp (fulminant polio), có lẽ đã mắc phải trong khi giúp đỡ người nghèo khó. Ông qua đời tại Turin vào ngày 4 tháng 7 năm 1925.

Hai ngày sau, đám đông chật cứng trong đám tang bắt đầu tiết lộ cho gia đình ông và thế giới về sự vĩ đại của chứng nhân Kitô hữu nơi ông. Và từ đây bắt đầu cuộc hành trình dài dẫn đến việc phong chân phước vào ngày 20 tháng 5 năm 1990 cho ông bởi Thánh Gioan Phaolô II.